Giáo Viên Bao Nhiêu Tuổi Về Hưu

Giáo Viên Bao Nhiêu Tuổi Về Hưu

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 quy định độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động tại Việt Nam là 15 tuổi trừ một số trường hợp đặc biệt theo luật định.

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động 2019 quy định độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động tại Việt Nam là 15 tuổi trừ một số trường hợp đặc biệt theo luật định.

Người lao động được hưởng lương hưu khi nào?

Để được hưởng lương hưu, người lao động cần đáp ứng điều kiện tại Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 (sửa đổi bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019) bao gồm:

(1) Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, trừ trường hợp (3) dưới đây, khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Đủ tuổi theo quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019;

- Đủ tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01/01/2021;

- Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò; hoặc

- Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

(2) Người lao động quy định tại điểm đ và điểm e khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên được hưởng lương hưu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

- Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019, trừ trường hợp Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1999 (sửa đổi năm 2008, năm 2014, năm 2019), Luật Công an nhân dân 2018, Luật Cơ yếu 2011, Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng 2015 có quy định khác;

- Có tuổi thấp hơn tối đa 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021;

- Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

(3) Lao động nữ là cán bộ, công chức cấp xã hoặc là người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc mà có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ tuổi nghỉ hưu quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 thì được hưởng lương hưu.

Lưu ý: Điều kiện về tuổi hưởng lương hưu đối với một số trường hợp đặc biệt sẽ do Chính phủ quy định.

Giới chuyên gia đánh giá tuổi thọ của con người rõ ràng đã tăng lên, cùng với đó khả năng làm việc cũng tăng, nhờ vào những tiến bộ trong y tế cũng như tính chất công việc thay đổi - Ảnh minh họa: NEW YORK TIMES

Để trả lời câu hỏi trên, đầu tiên cần quan tâm tới độ tuổi có thể làm việc, khi con người trong tình trạng khỏe mạnh.

Theo báo New York Times, nhà kinh tế học Gal Wettstein tại Trung tâm Nghiên cứu hưu trí ở Đại học Boston (Mỹ), nhận thấy người trưởng thành - vẫn khỏe mạnh ở tuổi 50 - có thể có thêm khoảng 23 năm khỏe mạnh nữa và thêm 8 năm sống với bệnh tật. Điều này có nghĩa độ tuổi làm việc có thể kéo dài tới 73.

Tiến sĩ Gal Wettstein đánh giá tuổi thọ của con người rõ ràng đã tăng lên, cùng với đó khả năng làm việc cũng tăng, nhờ vào những tiến bộ trong y tế cũng như tính chất công việc thay đổi.

Nhiều chuyên gia khác cùng lĩnh vực cũng cho rằng độ tuổi nghỉ hưu dưới 65 là không cần thiết. Tiến sĩ Lisa Renzi-Hammond, giám đốc Viện Lão học ở Đại học Georgia (Mỹ), chỉ ra đối với những người lao động trí óc, khả năng nhận thức có thể được duy trì tốt đến độ tuổi 70. Bà cho rằng nếu tuổi hưu được đưa ra dựa trên năng lực của nhân viên, thì nghỉ hưu trong độ tuổi 60 là không cần thiết.

Tuy nhiên, cần lưu ý việc xác định tuổi hưu lý tưởng cũng phải dựa vào sự bình đẳng trong nghỉ hưu.

Mặc dù nhiều người có trí tuệ minh mẫn và có thể làm việc đến những năm 80 tuổi, nhưng các công việc khác, đặc biệt là các công việc liên quan chân tay, có thể gây tổn hại đối với sức khỏe của con người.

Tiến sĩ Pinchas Cohen, hiệu trưởng Trường lão học Leonard Davis thuộc Đại học Nam California (Mỹ), chỉ ra "có nhiều người lao động chân tay thực sự không thể tiếp tục công việc đầy thách thức đó ở tuổi 65" và "nhu cầu nghỉ hưu của họ cần được tôn trọng".

Tiến sĩ Ranzi-Hammond cũng đồng ý với quan điểm này: "Đối với loại công việc không tốt cho thể chất, khiến bạn mất ngủ và liên tục căng thẳng, thì nghỉ hưu lại tốt cho sức khỏe của bạn".

Tuổi thọ và độ tuổi khỏe mạnh cũng có sự khác biệt giữa các chủng tộc và giới tính. Trong nghiên cứu của tiến sĩ Wettstein, ông nhận thấy ở độ tuổi 50, người da màu có thể tiếp tục làm việc trong 17 năm, trong khi đó phụ nữ da trắng lại có thể tiếp tục làm việc lên đến 24 năm. Điều đó cho thấy vấn đề bình đẳng là đáng quan tâm.

Tóm lại, không thể nói chắc chắn tuổi hưu lý tưởng cho mọi người là bao nhiêu, vì còn tùy thuộc nhiều yếu tố như loại hình công việc, chủng tộc, giới tính...

Tiến sĩ Lisa Cooper, giám đốc Trung tâm Sức khỏe bình đẳng John Hopkins (Mỹ), đánh giá việc tăng độ tuổi nghỉ hưu không đơn giản và cần được thực hiện với các suy xét về nhiều khía cạnh khác nhau, bởi vì nó sẽ ảnh hưởng lên mọi người theo những cách khác nhau.

Người dân làm thủ tục nhận lương hưu ở Hà Nội - Ảnh: HÀ QUÂN

Vậy lương hưu cần tăng như thế nào để có thể đáp ứng đời sống thực tế của người về hưu trong thời gian tới?

Người lao động được nghỉ hưu sớm khi nào?

Căn cứ Điều 5 Nghị định 135/2020/NĐ-CP thì người lao động thuộc các trường hợp dưới đây có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 05 tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định tại Điều 4 Nghị định 135/2020/NĐ-CP tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác:

- Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành.

- Người lao động có từ đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01 tháng 01 năm 2021.

- Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

- Người lao động có tổng thời gian làm nghề, công việc quy định tại điểm a và thời gian làm việc ở vùng quy định tại điểm b khoản này từ đủ 15 năm trở lên.

Nên chia đối tượng để tăng lương hưu

Trao đổi với Tuổi Trẻ, đại biểu Phạm Trọng Nghĩa, ủy viên chuyên trách Ủy ban Xã hội, cho hay hiện nay cả nước có khoảng 2,7 - 2,8 triệu người đang hưởng lương hưu. Trong đó, có khoảng 2 triệu người đang hưởng lương hưu thấp từ mức 3 - 7 triệu đồng/tháng.

Ông chỉ rõ về nguyên tắc, thời điểm 1-7 tới đây thực hiện cải cách chính sách tiền lương mới cho những người làm việc trong khu vực công sẽ có tác động làm tăng chi phí cuộc sống lên. Do vậy, cần phải xem xét tăng lương hưu và trợ cấp BHXH, trợ cấp cho người có công lên.

Thêm vào đó, Luật BHXH đã quy định tiền lương hưu, trợ cấp BHXH phải điều chỉnh để đảm bảo bù lại phần trượt giá. Trong năm 2023, CPI là 3,25%, GDP tăng hơn 5,05% nên cần tính điều chỉnh lương hưu để đảm bảo đời sống.

Về việc tăng lương hưu ở mức độ nào cho phù hợp, ông Nghĩa nhắc lại việc BHXH Việt Nam đang đề xuất mức tăng khoảng 8%, còn ý kiến của Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội, chuyên gia đề nghị mức cao hơn lên tới 15%.

Vị đại biểu này cho rằng cần có tính toán cụ thể và nên tăng theo đối tượng, trong đó ưu tiên cho người đang hưởng mức lương hưu thấp để tăng đảm bảo mức sống trung bình. Còn với nhóm lương hưu đã cao như mỗi tháng lĩnh mười mấy triệu thì có thể tăng mức thấp hơn.

"Có thể có nhóm lương hưu thấp thì tăng 15%, nhóm thấp vừa tăng 10%, còn nhóm lương đã ở mức đảm bảo thì tăng 8%. Như vậy, sẽ đảm bảo cho những người lương thấp sẽ được lãnh lương hưu tăng lên, đủ điều kiện sống trung bình và vẫn có sự tăng công bằng với các nhóm khác", ông Nghĩa đề xuất.

Cũng theo ông Nghĩa, hiện nay ở nước ta đang có hai nhóm gồm: một nhóm người về hưu trước 1-1-1995 do ngân sách nhà nước chi trả lương hưu và bù đắp khi tiến hành tăng lương hưu. Nhóm thứ hai là những người về hưu từ 1995 trở về đây do quỹ BHXH chi trả. Với nhóm này áp dụng theo nguyên tắc đóng - hưởng.

Với những người về hưu ở nhóm này đã không còn tham gia đóng góp cho quỹ nữa nên mức tăng lương hưu phải tính toán kỹ để đảm bảo cân đối của quỹ, đồng thời dựa trên việc đầu tư hiệu quả của quỹ. Về lâu dài, người lao động muốn hưởng lương hưu cao thì việc quan trọng là phải đóng cao.

Muốn như vậy phải có biện pháp để tăng mức lương của người lao động và có thêm các chính sách hưu trí bổ sung để người lao động có thể tham gia để sau này hưởng lương cao. Cần đa dạng hóa loại hình đầu tư của quỹ BHXH để có hiệu quả cao giúp người lao động hưởng các chế độ, trong đó có chế độ hưu trí cao hơn.

Còn nguyên thứ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân thì cho rằng dù chọn mức tăng 8% hay 15% thì đều phải bàn bạc, đánh giá, tính toán kỹ lưỡng. Tuy nhiên, khi lương cán bộ, công chức tăng mấy chục phần trăm mà lương hưu tăng không tương xứng cũng cần xem xét, bởi đời sống của những người về hưu còn nhiều khó khăn.

Theo ông Huân, những người đang nhận lương hưu thấp chủ yếu là nhóm nghỉ hưu trước ngày 1-1-1995 trở về trước. Thời điểm này, ngoài bản thân mặt bằng lương thấp, cộng với chế độ nâng bậc lương không thường xuyên, dẫn đến mức lương hưu rất thấp.

Ngoài ra, với nhóm lao động đang đóng BHXH với mức lương đóng thấp, thì khi về hưu cũng không thể có mức lương hưu cao được. Vì vậy, theo ông, với hai nhóm này cần chú ý đến đời sống của họ hơn để có hỗ trợ thêm. Chẳng hạn nếu mức điều chỉnh chung như BHXH Việt Nam đề xuất là 8%, thì nhóm này phải tăng lên 10%.

Ông Huân phân tích thêm lương hưu phụ thuộc vào mức đóng, cụ thể đóng cao thì hưởng cao và ngược lại. Song có thực tế, người về hưu sau cải cách tiền lương (từ 1-7) và đóng nhiều thời gian hơn, lương cao hơn, sẽ có lương hưu rất cao so với người về trước.

Chưa kể, theo dự Luật BHXH (sửa đổi) có thể giảm năm đóng BHXH xuống 15 năm dẫn đến nhiều người có lương hưu rất thấp. Để giải quyết vấn đề này, ông Huân cho rằng có thể tính toán để bù đắp cho những người đang có mức lương thấp được điều chỉnh cao hơn.

Còn những người có mức quá cao thì điều chỉnh thấp hơn một chút, song không có nghĩa nhóm này điều chỉnh với mức quá thấp, bởi không đúng với nguyên tắc đóng - hưởng của BHXH. "Họ đóng ở mức cao mà lại hưởng thấp sẽ không ổn.

Nhưng với người có mức lương thấp cần có cơ chế bù thêm giúp nâng cao đời sống lên. Trong vấn đề này cần có sự chia sẻ giữa những người tham gia", ông Huân đánh giá và cho rằng về lâu dài, để lương hưu cao ngoài việc đóng cao nên xem xét có thể đầu tư quỹ BHXH sinh lời nhằm bù đắp cho người hưởng lương hưu thấp.

Ví dụ đầu tư quỹ qua các kênh hợp pháp khác thay vì các kênh an toàn như mua trái phiếu Chính phủ hoặc gửi lãi ngân hàng đang triển khai. Việc này cũng cần được thông báo công khai để người lao động biết, đồng ý.