Khái Quát Nền Kinh Tế Của Hàn Quốc

Khái Quát Nền Kinh Tế Của Hàn Quốc

Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán. Tiên tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.

Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho một quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán. Tiên tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này.

Các hình thức xuất khẩu chủ yếu

Trên thị trường thế giới, các nhà buôn giao dịch với nhau theo những cách thức nhất định. Ứngvới mỗi phương thức xuất khẩu có đặc điểm riêng. Kỹ thuật tiến hành riêng Tuy nhiên trong thực tế xuất khẩu thường sử dụng một trong những phương thức chủ yếu sau:

Khái niệm trực tiếp là việc xuất khẩu các loại hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức cuả mình.

Trong trường hợp doanh nghiệp tham gia xuất khẩu là doanh nghiệp thương mại không tự sản xuất ra sản phẩm thì việc xuất khẩu bao gồm hai công đoạn:

+ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu với các đơn vị, địa phương trong nước.

+ Đàm phán ký kết với doanh nghiệp nước ngoài, giao hàng và thanh toán tiền hàng với đơn vị bạn.

Phương thức này có một số ưu điểm là: thông qua đàm phán thảo luận trực tiếp dễ dàng đi đến thống nhất và ít xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc do đó:

+ Giảm được chi phí trung gian do đó làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.

+ Có nhiều điều kiện phát huy tính độc lập của doanh nghiệp.

+ Chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá sản phẩm của mình.

Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì phương thức này còn bộc lộ một số những nhược điểm như:

+ Nếu như không có cán bộ XNK có đủ trình độ và kinh nghiệm khi tham gia ký kết hợp đồng ở một thị trường mới hay mắc phải sai lầm gây bất lợi cho mình.

+ Khối lượng hàng hoá khi tham giao giao dịch thường phải lớn thì mới có thể bù đắp được chi phí trong việc giao dịch.

Như khi tham gia xuất khẩu trực tiếp phải chuẩn bị tốt một số công việc. Nghiên cứu hiểu kỹ về bạn hàng, loại hàng hoá định mua bán, các điều kiện giao dịch đưa ra trao đổi, cần phải xác định rõ mục tiêu và yêu cầu của công việc. Lựa chọn người có đủ năng lực tham gia giao dịch, cần nhắc khối lượng hàng hoá, dịch vụ cần thiết để công việc giao dịch có hiệu quả.

Đây là hình thức kinh doanh trong đó đơn vị XNK đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xuất khẩu do đó nhà sản xuất và qua đó được hưởng một số tiền nhất định gọi là phí uỷ thác.

Hình thức này bao gồm các bước sau:

+ Ký kết hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị trong nước.

+ Ký hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán tiền hàng bên nước ngoài.

+ Nhận phí uy thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước.

Những người nhận uỷ thác hiểu rõ tình hình thị trường pháp luật và tập quán địa phương, do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và thanh tránh bớt uỷ thác cho người uỷ thác.

Đối với người nhận uỷ thác là không cần bỏ vốn vào kinh doanh tạo ra công ăn việc làm cho nhân viên đồng thời cũng thu được một khoản tiền đáng kể.

Tuy nhiên, việc sử dụng trung gian bên cạnh mặt tích cực như đã nói ở trên còn có những han chế đáng kể như :

- Công ty kinh doanh XNK mất đi sự liên kết trực tiếp với thị trường thường phải đáp ứng những yêu sách của người trung gian.

Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Nhật Bản

Nghệ thuật kiến trúc Nhật Bản gồm 2 đặc điểm: Thần đạo và Phật giáo

Với điện phật Tô-đai-đi đây là chùa chính của phái Tông hoa nghiêm (752) trong điện đ­ợc đặt t­ượng Phật Thích-ca-mâu-ni bằng đồng thau lớn nhất thế giới

Giống như­­ ở Trung Quốc nghệ thuật hội hoạ, đồ hoạ Nhật Bản dùng bút lông để vẽ nhữ­ng hội hoạ phát triển muộn hơn điêu khắc vào khoảng thế kỉ V-VI, đến cuối thế kỉ VI mới bắt đầu phát triển. Đến thế kỉ IX một số nhà họa sĩ­ Nhật Bản sang Trung Quốc hoạ vẽ về Nhât truyền đạo qua các tranh t­ợng Phật giáo một số thể loại tiêu biểu như­­: Tranh tôn giáo, tranh trang trí vách ngăn, tranh thuỷ mặc, tranh cuộn mang tính chất minh hoạ cho tiểu thuyết giả sử... Đến thế kỉ XIX các hoạ sĩ ấn t­­ợng ở Pháp đã phát hiện ra thể loại tranh khắc gỗ của Nhật d­ới hình thức bọc hàng Gô-ganh, Van-gốc rất ngạc nhiên tr­­ớc cách sử lí tranh của ng­ời Nhật. Các hoạ sĩ tiêu biểu là U-ta-ma-rô, Hô-ku-shai, Hi-rô-shi-rê

Nghệ thuật hội họa Nhật Bản ở mọi thể loại đều có đặc điểm chung là giàu tính trang trí, mang đạm đà chất dân tộc, mầu sắc trong sáng, đ­­ờng nét mềm mại, bố cục đơn giản mà hiện thực sống động

Xuất khẩu hàng hoá theo nghị định thư

Đây là hình thức xuất khẩu hàng hoá (thường là để gán nợ) được ký kết theo nghị định thư giữa hai chính Phủ.

Đây là một trong những hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường: tìm kiến bạn hàng, mặt khách không có sự rủi ro trong thanh toán.

Trên thực tế hình thức xuất khẩu này chiếm tỷ trong rất nhỏ. Thông thường trong các nước XHCN trước đây và trong một số các quốc gia có quan hệ mật thiết và chỉ trong một số doanh nghiệp nhà nước.

Đây là hình thức kinh doanh mới nhưng đang phát triển rộng rãi, do những ưu việt của nó đem lại.

Đặc điểm của loại hình xuất khẩu này là hàng hoá không cần vượt qua biên giới quốc gia màkhách hàng vẫn mua được. Do vậy nhà xuất khẩu không cần phải thâm nhập thị trường nước ngoài mà khách hàng tự tìm đến nhà xuất khẩu.

Mặt khác doanh nghiệp cũng không cần phải tiến hành các thủ tục như thủ tục hải quan, mua bảo hiểm hàng hoá …do đó giảm được chi phí khá lớn.

Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay xu hướng di cư tạm thời ngày càng trở nên phổ biến mà tiêu biểu là số dân đi du lịch nước ngoài tăng nên nhanh chóng. Các doanh nghiệp có nhận thức đây là một cơ hội tốt để bắt tay với các tổ chức du lịch để tiến hành các hoạt động cung cấp dịch vụ hàng hoá để thu ngoại tệ. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể tận dụng cơ hội này để khuếch trương sản phẩm của mình thông qua những du khách.

Mặt khác với sự ra đời của hàng loạt khu chế xuất ở các nước thì đây cũng là một hình thức xuất khẩu có hiệu quả được các nước chú trọng hơn nữa. Việc thanh toán này cũng nhanh chóng và thuận tiện.

Đây là một phương thức kinh doanh trong đó một bên gọi là bên nhận gia công nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công).

Đây là một trong những hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ và được nhiều quốc gia chú trọng.

Đối với bên đặt gia công: Phương thức này giúp họ lợi dụng về giá rẻ, nguyên phụ và nhân công của nước nhận gia công.

Đối với bên nhận gia công: Phương thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho nhân công lao động trong nước hoặc nhập được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng một nền công nghiệp dân tộc như Nam Triều Tiên, Thái Lan, Sinhgapo….

Các hình thức gia công quốc tế:

Xét về quyền sở hữu nguyên liệu, gia công quốc tế có thể tiến hành dưới hình thức sau đây:

Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ thu hồi sản phẩm và trả phí gia công.

Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ mua thành phẩm. Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.

Ngoài ra người ta còn có thể áp dụng hình thức kết hợp trong đó bên đặt gia công chỉ giao những nguyên vật liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp những nguyên vật liệu phụ.

Xét về giá cả gia công người ta có thể chia việc gia công thành hai hình thức:

+ Hợp đồng thực chi, thực thanh (cost phis contract) trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đạt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.

+ Hợp đồng khoán trong đó ta xác định một giá trị định mức (target price) cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí của bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa, hai bên vẫn thanh toán theo định mức đó.

Mối quan hệ giữa bên nhận gia công và bên đặt gia công được xác định bằng hợp đồng gia công. Hợp đồng gia công thường được quy định một số điều khoản như thành phẩm, nguyên liệu, giá cả, thanh toán, giao nhận…

Đây là một hình thức xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá trước đây đã nhập khẩu, chưa qua chế biến ở nước tái xuất.qua hợp đồng tái xuất bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số ngoại tệ đã bỏ ra ban đầu.

Hợp đồng này luôn thu hút ba nước xuất khẩu, nước tái xuất, và nước nhập khẩu. Vì vậy người ta gọi giao dịch tái xuất là giao dịck ba bên hay giao dịch tam giác.( Triangirlar transaction)

Tái xuất có thể thực hiện bằng một trong hai hình thức sau:

Tái xuất theo đúng nghĩa của nó, trong đó hàng hoá đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất, rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động của đồng tiền đồng tiền được xuất phát từ nước nhập khẩu sang nước tái xuất và nhanh chóng được chuyển sang nước xuất khẩu.

Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào nhà xưởng máy móc, thiết bị, khả năng thu hồi vốn cũng nhanh hơn.

kinh doanh tái xuất đòi hỏ sự nhạy bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong các hoạt động mua bán. Do vậy khi doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo phương thức này thì cần phải có đội ngũ cán bộ có chuyện môn cao.

Bán đảo Triều Tiên, trung tâm của Đông Bắc Á, giáp Trung Quốc, Nga và Nhật Bản nằm trong khoảng từ 33 đến 43 vĩ độ Bắc và 124 đến 132 kinh độ Đông theo tọa độ địa cầu. Chiều dài bán đảo Triều Tiên, bao gồm cả phía bắc và phía nam, khoảng 1.000 km, chiều rộng trung bình từ đông sang tây khoảng 300 km, tổng diện tích là 222.000

. Diện tích Hàn Quốc tính đến đường ranh giới quân sự là khoảng 100.364

3 phần 4 tổng diện tích của Bán đảo Triều Tiên là núi, nên đứng ở đâu cũng có thể nhìn thấy núi nhưng gần như không thể nhìn thấy đường chân trời. Địa hình Hàn Quốc có đặc điểm cao ở phía Đông và thấp ở phía Tây với những dãy núi cao trên 1.000m so với mực nước biển thường thấy ở phía Bắc và phía Đông trở thành dải xương sống của địa hình Hàn Quốc. Từ "xương sống" này, các triền núi chia thành hai hướng, các triền núi dốc hơn vươn cao sang bờ biển phía Đông và phần còn lại dần thoải xuống bờ biển phía Tây.

Trừ phía Bắc, ba mặt còn lại của bán đảo Triều Tiên giáp với biển. Đường bờ biển dài khoảng 17.000 km (bao gồm cả các đảo). Bờ biển phía Đông có đặc điểm là mực nước rất sâu, đường bờ biển đơn điệu còn bờ biển phía Tây và phía Nam có mực nước nông, đường bờ biển phức tạp, với nhiều hòn đảo. Nước biển Đông trong nhưng mực nước nơi đây khá sâu, bờ biển Tây lại nổi tiếng với những bãi bùn sống động, Biển Nam hay còn được gọi là Biển đa đảo do có nhiều hòn đảo khác nhau, tạo ra sự độc đáo riêng cho mỗi vùng biển, cho phép du khách thưởng thức vẻ đẹp đa dạng của biển đảo Hàn Quốc.

Hàn Quốc có khí hậu ôn đới với 4 mùa rõ rệt. Mùa xuân và mùa thu thời tiết khô hanh do ảnh hưởng của áp cao di động, mùa hè nóng ẩm do ảnh hưởng của áp cao Bắc Thái Bình Dương. Ngoài ra, mùa đông thường lạnh và khô do sự ảnh hưởng của áp cao lục địa lạnh và khô.

Nhiệt độ trung bình hàng năm của Hàn Quốc là khoảng 7 độ đến 15 độ C. Tháng 8 là tháng nóng nhất, nhiệt độ trung bình trong tháng dao động từ 19,7 - 26,7°C, có ngày nắng nóng với nhiệt độ ban ngày cao nhất lên đến hơn 33°C. Nhiệt độ trung bình trong tháng vào tháng 1, tháng lạnh nhất, dao động từ - 6,9 đến 3,6°C, bạn có thể nhìn thấy băng tuyết trên khắp cả nước. Nhiệt độ ban ngày trung bình vào mùa xuân và mùa thu duy trì ở mức 15 - 18°C. Vào những mùa này, bầu trời trong xanh, thời tiết dễ chịu rất phù hợp cho các hoạt động tham quan, dã ngoại ngoài trời.

Lượng mưa trong năm là 1.332 mm, trong đó 55% thường rơi vào mùa hè. Từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 7 (khoảng 30 ngày) được gọi là "mùa mưa" do trời mưa liên tục nhiều ngày. Độ ẩm có sự chênh lệch lớn giữa các mùa. Vào tháng 7 và tháng 8 độ ẩm cao, lên tới 75-85% và vào tháng 3 và tháng 4 độ ẩm thấp hơn trong khoảng 50-70%.

Đặc điểm khí hậu xung quanh bờ biển phía nam của Hàn Quốc là cận nhiệt đới, nơi đây thường xuyên đón nhận những cơn mưa lớn cục bộ vào mùa hè. Bởi đặc điểm này, nơi đây đã có thể trồng các loại cây thường có ở vùng nhiệt đới như chuối hay xoài tím nhưng đồng thời diện tích canh tác phù hợp đối với các loại cây nông nghiệp chính như lúa và táo lại có xu hướng giảm dần.

Dân số Hàn Quốc là 51,63 triệu người vào năm 2022 (theo thống kê năm 2022) và là quốc gia đông dân thứ 29 trên thế giới. Tỷ lệ dân số tính riêng trong khu vực đô thị (Seoul, Gyeonggi-do) chiếm tới 50,49% cho thấy sự chênh lệch về cơ cấu dân số khá nghiêm trọng (Theo Dữ liệu ước tính dân số trong tương lai, tính tại thời điểm tháng 12 năm 2021).

Với sự tiến bộ của y học và tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, tuổi thọ của người Hàn Quốc đã tăng thêm 21,3 tuổi, từ mức 62,3 tuổi năm 1970 lên 83,6 tuổi vào năm 2021. Đây là mức cao thứ 3 trong 38 nước thành viên của OECD.

Tuy nhiên, tổng tỷ lệ sinh của Hàn Quốc vào năm 2021 là 0,81 người nên chính phủ Hàn Quốc đã và đang phải thực hiện nhiều chính sách mới một cách tích cực và đa dạng để giải quyết các vấn đề về tỷ lệ sinh thấp và già hóa dân số.

Hàn Quốc sử hữu hệ thống ngôn ngữ (tiếng Hàn) và chữ viết (Hangeul) riêng. Tiếng Hàn thuộc nhóm ngôn ngữ chắp dính, là ngôn ngữ thể hiện các mối quan hệ ngữ pháp trong câu bằng cách kết hợp các từ có ý nghĩa thực với các yếu tố có chức năng ngữ pháp.

Bảng chữ cái tiếng Hàn (Hangeul) phản ánh tiếng nói của tiếng Hàn bằng hệ thống văn tự, một âm tiết tiếng Hàn được tạo nên nhờ vào sự kết hợp của phụ âm và nguyên âm. Vua Sejong (1397 - 1450) của Triều đại Joseon sáng chế chữ cái tiếng Hàn để ký tự hoá âm đọc tiếng Hàn, và gọi hệ thống ký tự này là Hunminjeongeum (Huấn dân chính âm). Ban đầu, Huấn dân chính âm có 28 chữ cái bao gồm 17 phụ âm và 11 nguyên âm, nhưng theo thời gian, 4 chữ cái được tinh giản, ngày nay bảng chữ cái chỉ còn 14 phụ âm và 10 nguyên âm, tổng cộng là 24 chữ cái.

Trên toàn thế giới, duy chỉ có bảng chữ cái Hunminjeongum là bảng chữ cái được sáng tạo ra phục vụ cho bách tính, và cũng là bảng chữ cái duy nhất được nhà vua trực tiếp tham gia vào quá trình sáng tạo, xuất bản thành sách. Nội dung về việc tạo ra Huấn dân chính âm được ghi trong Huấn dân chính âm giải lệ (Hunminjeongeum Haerye). Năm 1997, UNESCO đã công nhận giá trị và chỉ định Huấn dân chính âm giải lệ là Di sản tư liệu thế giới. Ngoài ra, UNESCO còn trao "Giải thưởng xóa mù chữ Vua Sejong", người có đóng góp đáng kể vào việc xóa mù chữ trên toàn thế giới.

Gần đây, khi nghệ thuật tượng hình của Hangeul đã được biết đến trên toàn thế giới, Hangeul đã được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nghệ thuật như quần áo, đạo cụ thiết kế, tranh vẽ và tác phẩm điêu khắc ngoài việc được sử dụng như một hệ thống chữ viết.

Vua Sejong Vị vua thứ tư của triều đại Joseon, thời gian trị vị từ năm 1418 đến 1450. Ông đã để lại nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực bao gồm khoa học, kinh tế, quốc phòng, nghệ thuật, văn hóa. Trong số đó, việc tạo ra Huấn dân chính âm (Hangeul) cho người dân vào năm 1443 được coi là thành tựu lớn nhất của vua Sejong.

Quốc kỳ Taegeukgi (Cờ Thái Cực)

Quốc kỳ (Taegeukgi) Taegeukgi đã được chọn là Quốc kỳ chính thức của Joseon vào năm 1883 và được sử dụng làm quốc kỳ của Hàn Quốc kể từ khi thành lập Đại Hàn Đế quốc vào năm 1897. Trên nền màu trắng có một vòng thái cực với màu xanh và đỏ, bốn góc là bốn hình quẻ bát quái màu đen. Nền trắng của cờ tượng trưng cho sự trong sáng, tinh khiết và hòa bình, thái cực là sự điều hòa giữa âm và dương (theo triết học phương Đông, âm dương tuy là hai luồng khí trái ngược nhưng kết hợp lại để tạo ra thiên đại vạn vật của đất trời), bốn quẻ (càn, khôn, khảm, ly) có nghĩa là trời, đất, nước và lửa.

Quốc hoa Mugunghwa (Hoa dâm bụt kép)

Quốc Hoa (Mugunghwa) Mugunghwa là quốc hoa của Hàn Quốc mang ý nghĩa là "loài hoa nở mãi không tàn". Loài hoa này thể hiện tấm lòng trung thành và tính bền bỉ của dân tộc Hàn.

Aegukga (Bài ca yêu nước) là quốc ca của Hàn Quốc. Nhiều nhạc sỹ tiên phong đã viết lời bài hát sau đó vào năm 1935, Ahn Eak Tai đã đưa thêm giai điệu vào nền lời bài hát đã có để hoàn thiện thành Aegukga như hiện nay. Aegukga được lựa chọn làm quốc ca chính thức cùng với việc thành lập chính phủ Hàn Quốc vào năm 1948.

Hệ thống chính trị Hàn Quốc là một đất nước cộng hòa dân chủ, có hệ thống chính trị tam quyền phân lập với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Ngoài ra, còn áp dụng chế độ Tổng thống, trong đó Tổng thống - nguyên thủ quốc gia, vừa là người đứng đầu Chính phủ vừa là người đứng đầu cơ quan hành pháp. Tổng thống được lựa chọn thông qua việc người dân bầu cử trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống Yoon Suk Yeol là tổng thống thứ 20 nhậm chức vào năm 2022.

Nếu như bạn đang có dự định đi du học Hàn Quốc trong thời gian sắp tới nhưng có quá nhiều thông tin làm cho các bạn hoang mang và bối rối? Trong bài viết này, Du học NVC sẽ chia sẻ những thông tin bổ ích, giúp các bạn nắm được hầu hết kiến thức cơ bản cần có về du học Hàn Quốc.